Mạy puốc ca na

Mạy puốc ca na

Mạy puốc ca na

  • Tên khoa học : Dendrocalamus pachystachys Hsueh et D.Z.Li., 1989
  • Họ : Hoà thảo - Poaceae
  • Bộ : -
  • Nhóm loài cây LSNG:
  • Phân bố :

  • Mạy puốc ca na
    Tên khoa học: Dendrocalamus pachystachys Hsueh et D.Z.Li., 1989
    Tên khác:       Mạy pu¸ cai na, mạy puốc (Thái, Lào), tre phấn
    Họ:      Hoà thảo – Poaceae
    Phân họ:         Tre – Bambusoideae
    Đặc điểm hình thái
    Thân ngầm dạng củ, cây mọc thành cụm, nhiều thân. Chiều cao thân 15-20m, đường kính 10-15cm; ngọn thẳng đứng hay hơi rủ; các đốt ở gốc thường có vòng rễ khí sinh. Chiều dài lóng 35-50cm, khi non phủ lông hung hay lông phấn trắng dày đặc; vách thân dày 2cm; vòng thân phẳng; chiều dài lóng 7mm; mỗi đốt thân mang nhiều cành, thường có một cành chính phát triển, chiều cao dưới cành 2-3m. Bẹ mo rụng sớm, chất da, lúc đầu màu lục vàng, lưng nhẵn hay phủ lông gai nhỏ thưa thớt và sớm rụng ở thời kỳ ra măng; không có tai mo; lưỡi mo cao 3mm, mép xẻ răng nhỏ, phiến mo lật ra ngoài, dài 6-12cm, gân dọc mặt lưng rõ. Cành nhỏ mang 10-15 lá; bẹ lá phủ lông gai nhỏ màu nâu vàng; không tai, lưỡi lá cao 3,5mm, mép xẻ răng cưa; phiến lá to nhất dài 40cm, rộng 12cm, mặt dưới phủ lông nhung ngắn.
    Cụm hoa mang nhiều bông nhỏ, cành cụm hoa có lóng ngắn 1,2-3cm, một phía dẹt, phủ lông nhung màu rỉ sắt; mỗi đốt có một vài bông chét hình trứng dài, màu lục tím, hơi bị ép dẹt, dài 1,7-2,4cm, rộng 0,5-1cm, phủ lông nhỏ màu trắng bạc dày đặc, đầu nhọn, chứa 5-8 hoa nhỏ; khi chín các hoa tách rời nhau và mở ra; mày ngoài đầu có mũi nhọn ngắn, chất da, dài 7,5-12,5mm; mày trong dài bằng hay hơi dài hơn mày ngoài, phủ lông nhung, lưng có 2 gờ, đầu xẻ 2; nhị 6, chỉ nhị dài 7-11mm, bao phấn màu vàng, dài 6-7mm; nhuỵ dài 12-17mm, phủ lông ngắn; đầu nhụy 1.
    Các thông tin khác về thực vật
    Mạy puốc cai na là loài tre mới được phát hiện và mô tả năm 1989 ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đây cũng là loài tre lần đầu tiên được ghi nhận ở Việt Nam. Về hình thái cây có một số đặc điểm tương tự với cả mai xanh và mạnh tông, vì cây có chiều dài và đường kính lóng giống mai xanh, nhưng lại phủ lông hung và lông xám mạnh tông. Đặc điểm để phân biệt mạy puốc cai na với 2 loài trên là, thân non của mạy puốc có lông xám phủ dày đặc và tồn tại khá lâu. Nhìn từ xa bụi tre có nhiều thân màu trắng.
    Phân bố
    Việt Nam:
    Mới gập mạy puốc cai na ở Lai Châu, Điện Biên (Điện Biên, Tuần Giáo); Sơn La (Thuận Châu, Mộc Châu, Mai Sơn, Sông Mã); Hoà Bình (Mai Châu, Đà Bắc); Phú Thọ (Thanh Sơn) và Thái Nguyên.
    Thế giới:
    Vân Nam (Trung Quốc). Mẫu chuẩn thu được tại Huang Jia Ying, huyện Cheng Jiang, tỉnh Vân Nam.
    Đặc điểm sinh học
    Vùng phân bố của mạy puốc cai na có khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ trung bình năm 22-250C, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất 28-350C, nhiệt độ tháng thấp nhất có khi xuống đến 2-30C. Lượng mưa trung bình năm 1.200-2.000mm, có 2 mùa trong năm, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trong mùa mưa chiếm 70-90% lượng mưa cả năm; độ cao phân bố của cây 200-800m trên mặt biển, với độ dốc từ 00 đến 200.
    Thường gặp mạy puốc cai na lẫn với mạy sang trên các sườn và chân núi chạy dọc trên Quốc lọ số 6 qua tỉnh Sơn La; nhưng so với mạy sang, mạy puốc cai na phân bố ở thấp hơn, thường ở phía chân núi nơi có độ đốc thấp, tầng đất dày và ẩm hơn. Khu phân bố của mạy puốc cai na cũng rộng hơn mạy sang, trong khi mạy puốc trồng được ở một số tỉnh thuộc vùng Đông Bắc thì mạy sang chỉ giới hạn ở các tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bắc Bộ. Tính chịu hạn của mạy puốc kém mạy sang.
    Mạy puốc cai na thường được trồng trên các đất feralit đỏ vàng hay vàng đỏ, phát triển trên phiến thạch sét hoặc trên sa thạch; đôi khi cũng gặp loài tre này được trồng ở vùng đất xám gần chân núi đá vôi hoặc trên đất phù sa và phù sa cổ ven sông suối.
    Công dụng
    Công dụng của mạy puốc cai na cũng gần như với mai xanh (loài phân bố nhiều ở vùng Cao Bằng Lạng Sơn). Thân tre có kích thước lớn nên dùng trong xây dựng, làm đũa, làm hàng mỹ nghệ, ván thanh, ván sàn hoặc làm giấy.
    Măng của puốc cai na cũng rất ngon. Giống như các loại mai khác, có thể dùng ăn tươi hoặc chế biến măng lưỡi lợn khô, cất trữ lâu dài và thường bán vào dịp tết.
    Lá cây có kích thước lớn giống lá diễn trứng có thể nghiên cứu sản xuất lá sấy khô để xuất khẩu cùng với lá diễn trứng.
    Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
    Nhân giống:
    Nhân dân vùng Tây Bắc mới trồng mạy puốc cai na bằng giống gốc.
    Muốn lấy giống gốc, chọn cây bánh tẻ 12-18 tháng tuổi, tốt nhất là 12 tháng tuổi; đường kính 6-10cm, cây mập, cành lá sum suê, bộ rễ phát triển. Loại này chỉ sau vài tháng đã đẻ măng lần thứ nhất, năm thứ hai đã thành bụi. Chọn cây trên 18 tháng tuổi thời gian ra măng chậm và tỷ lệ ra măng rất thấp hoặc không ra măng. Đào quang gốc cây mẹ 20-30cm, chú ý không làm tổn thương gốc và rễ cây, đặc biệt phải bảo vệ các mắt trên thân ngầm. Dùng thuổng sắc đánh gốc (thân ngầm), kèm theo đoạn thân khí sinh dài 1-1,5m với 3-5 lóng, có ít nhất 2-3 mắt. Giống được trồng càng sớm càng tốt, nếu vận chuyển đi xa phải dùng rơm rạ bó chặt gốc để tránh sây sát.
    - Chọn vùng trồng: Vùng trồng thích hợp là các tỉnh của vùng Tây Bắc các tỉnh giáp vùng Tây Bắc thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, nơi có độ cao 100-600m trên mặt biển, độ dốc <200.
    - Đất trồng: Chọn nơi có đất thịt nhẹ đến trung bình, tầng đất dày và ẩm ở sườn đồi, ven nhà, ven mương, dọc theo sông suối. Không nên trồng đại trà trên vùng đồi lớn vì thường cho kết quả không tốt lắm.
    - Thời vụ trồng: cuối mùa xuân, đầu mùa hè (tháng 3- 5).
    Kỹ thuật trồng:
     Nếu trồng bằng giống gốc, phải đào hố trước 1 tháng. Kích thước hố 50x50x50cm. Bón lót 5-10kg phân chuồng hoai/hố. Cự ly hố 5-10m. Khi trồng moi đất trong hố, đặt hom giống nghiêng 30-450, 2 hàng mắt quay sang hai bên. Lấp đất, lèn chặt, trên phủ cỏ, rác để giữ ẩm. Gặp thời tiết khô phải tuới nước.
    - Chăm sóc, bảo vệ: Cần chăm sóc cây trồng sau 4 năm, mỗi năm 1-2 lần. Khi chăm sóc chú ý phát quang cây xung quanh để trồng khỏi bị che bóng; làm cỏ và vun quanh gốc, tốt nhất là đắp bùn ao hoặc bón thêm phân chuồng hoai cho cây. Chú ý bảo vệ măng mới nhú vì khi đó măng rất ngon, dễ bị trâu bò và các thú rừng phá hoại.
    Khi măng bị sâu vòi voi đẻ trứng, nên chặt bỏ và tiêu huỷ ngay để khỏi lan sang cây khác.
    Khai thác chế biến và bảo quản
    Cũng như các loài tre mọc cụm có kích thước lớn khác như mai, luồng, mạy puốc cai na có thể khai thác vào năm thứ 4-6, tuỳ theo điều kiện đất tốt xấu. Hiện nay phương pháp chủ yếu vẫn là khai thác chọn; trong bụi chặt những cây trên 3 tuổi để sử dụng làm vật liệu xây dựng hay làm đũa, làm ván thanh; nếu dùng làm nguyên liệu giấy có thể chặt cây trên 2 tuổi. Thường khai thác vào mùa khô để giảm tỷ lệ mối mọt và kéo dài thời gian sử dụng. Khi khai thác thường chặt trên gốc thân 20-30cm
    Thân tre mang về có thể dùng ngay hoặc ngâm nước 2-3 tuần lễ. Tốt nhất là ngâm nơi nước chảy.
    Khai thác măng bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10. Khi măng nhú khỏi mặt đất 25-40cm có thể cắt. Măng dùng ăn tươi hoặc chế biến măng khô. Măng mạy puốc cai na thường được chế biến thành măng lưỡi lợn để bảo quản được lâu và bán được giá cao.
    Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
    Mạy puốc cai na là một loài tre có khu phân bố tương đối hẹp. Đây là loài đặc hữu của phía Nam tỉnh Vân Nam và vùng Tây Bắc nước ta. Loài tre này ít được biết ở các vùng khác, ngoài khu vực phân bố. Nên phát triển mạy puốc cai na thành loài tre trồng chủ yếu ở các tỉnh dọc Sông Đà. Chú ý đến khả năng chịu khô và có khả năng sống được ở các độ dốc cao hơn các loài mai, luồng và bương của loài tre mới được phát hiện này.
    Tài liệu tham khảo
    1. Nguyễn Từ Ưởng và cộng sự (2004). Một số loài tre chủ yếu của Việt Nam. Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam - Hà Nội (Chưa xuất bản); 2. Academia Sinica (1996). Poales. Flora Reipublicae Popularis Sinicae. Tomus (1): 160-162. Science Press (Trung văn).