Mạy pì
Mạy pì
Mạy pì
Tên khoa học: Dendrocalamus minor (McClure) Chia et H. L. Fung, 1980
Tên đồng nghĩa: Sinocalamus minor (McClure) Chia et H. L. Fung
Tên khác: Tre mỡ, tre mỡ lạng sơn, tre mỡ nhỏ, mạy tì, mạy vì, mạy nhùng (Tày, Nùng).
Họ: Hoà thảo – Poaceae
Phân họ: Tre – Bambusoideae
Đặc điểm hình thái
Thân ngầm dạng củ, thân tre mọc cụm; gần đứng thẳng, chiều cao 6-12m, đường kính (3-)6-8cm, ngọn cong hình cung hay rủ xuống. Thân cây có màu xanh mượt khi non và xanh hay vàng nhạt khi già. Lóng hình ống tròn, dài 30-45cm, không lông; lúc non phủ dày phấn trắng, nhất là phần bị che bởi bẹ mo; bề dày vách thân 5-5,6mm; vòng thân phẳng, vòng mo hơi nổi. Cành nhiều, mọc từ các lóng giữa thân, mọc cụm ở các đốt; cành chính không rõ. Bẹ mo sớm rụng, chất da, lúc non màu xanh lục, dạng lưỡi xẻng, mặt lưng phủ lông gai nhỏ màu nâu, áp sát, nhất là phần gốc; tai mo rất nhỏ dài 3mm, rộng 1mm, dễ rụng; lưỡi mo cao 3-8mm, mép phủ lông dạng lông mi nhỏ khá dài (6-8mm); phiến mo lật ra ngoài, hình lưỡi mác dạng trứng hay hình lưỡi mác, dài 6-10cm, mặt lưng không lông, gốc mặt bụng và mép đều có lông gai nhỏ. Lá 3-8, bẹ lá lúc đầu có lông gai nhỏ, thưa; về sau không lông; không có tai lá và lông mi; lưỡi lá cao 1mm, mép trên có xẻ răng nhỏ; phiến lá hình lưỡi mác, trung bình dài 10-25cm, rộng 1,5-3cm (nhưng to nhất có thể tới 35x7cm), gốc tròn, đầu nhọn dài nhỏ, hai mặt đều không lông, mặt dưới gần như có phấn trắng, màu lục xám, gân cấp hai 8-12 đôi, gân ngang nhỏ có thể thấy rõ mặt dưới phiến lá.
Cành cụm hoa dài nhỏ, không lá, chiều dài lóng 2-3,5cm, một phía hơi dẹt hay có rãnh dọc rộng, phủ lông mềm màu rỉ sắt, dày đặc, mỗi đốt đính 5-10 bông nhỏ, bông nhỏ dẹt, hình tròn dài dạng trứng, dài khoảng 1,2cm, rộng 4-7mm, lúc tươi màu tím, sau khi khô trở thành màu vàng nâu, chứa 4 hay 5 hoa, mày ngoài chất giấy hơi cứng, hình trứng rộng hay hình tim, dài 9-11mm, rộng 5- 6mm, gần không lông; mày trong mỏng, hình lưỡi mác hẹp, dài 6-8mm, rộng 2mm, lưng có lông nhỏ thưa, mép và trên 2 gờ đều có lông mảnh, giữa gờ có 3 gân không rõ, bao phấn mầu vàng, dài 5-6mm, trung đới nhô lên trên thành mũi nhọn nhỏ không lông; nhuỵ, trừ gốc ra, toàn bộ có lông nhung nhỏ, bầu hình trứng, vòi dài, nhỏ, đầu nhuỵ 1, thường cong cuộn, có lông nhung dạng bàn chải. Quả hình trứng dạng tròn thuôn, dài khoảng 5mm, đường kính 3,5mm, đầu có mỏ.
Các thông tin khác về thực vật khác
Ở Việt Nam có 3 loài tre thường mang tên địa phương là tre mỡ. Đó là loài tre mỡ hay tre mỡ lạng sơn (Dendrocalamus minor) phân bố nhiều ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Tre mỡ hay tre là ngà bắc (Bambusa sinospinosa) phân bố ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ) và tre mỡ (Bambusa vulgaris) phân bố ở các tỉnh phía Nam. Để tránh nhầm lẫn với 2 loài tre mỡ khác, chúng tôi dùng tên mạy pì, đây là tên gọi phổ biến của đồng bào Tày và Nùng sống ở 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nơi phân bố tập trung nhất của loài này.
Phân bố
Việt Nam:
Mạy pì được trồng nhiều ở các tỉnh biên giới phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang; tập trung nhiều nhất ở Lạng Sơn và Cao Bằng. Đặc biệt ở các huyện: Trùng Khánh, Hà Quảng, Thạch An (Cao Bằng), Tràng định, Văn Quan, Bắc Sơn, Văn Lãng và quanh thị xã Lạng Sơn (Lạng Sơn).
Thế giới:
Mạy pì chỉ phân bố ở Nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam). Hầu như chỉ gặp mạy pì ở trạng thái cây trồng. Rất ít khi gặp trong trạng thái tự nhiên. Người ta cho rằng, các tỉnh phía Bắc nướ ta và miền Nam Trung Quốc có thể là trung tâm phân bố của loài mạy pì.
Đặc điểm sinh học
Cây ưa khí hậu nhiệt đới mưa mùa có mùa đông lạnh, địa hình đồi núi thấp. Độ cao phân bố của mạy pì ở Việt Nam từ 100-500m. Theo tài liệu Trung Quốc, mạy pì có thể lên độ cao đến 1.200m so với mặt biển.
Cây ưa sáng hoặc hơi chịu bóng và ẩm, trên đất sâu dày, có nhiều mùn. Thường chỉ được trồng phân tán từng khóm hoặc vài khóm xung quanh nhà, trong vườn, dọc bờ ao, bờ suối hoặc ven đường đi. Mỗi khóm có thể đến 40-60 cây. Nếu không khai thác, mạy pì có thể mọc trên nhiều loại đất, nhưng thích hợp nhất là đất phong hoá từ đá vôi. Có thể trồng mạy pì ven chân núi hay trên sườn núi có độ dốc cao 30-350 (xã Phúc Sen, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng). Nơi đất ẩm, độ dốc không cao, mạy pì phát triển rất tốt. Cây không chịu úng, nếu bị đọng nước cây sẽ bị chết. Khi non, mạy pì là loài tre hơi ưa bóng, có thể trồng ở bìa rừng, xen với cây gỗ hay loài tre khác có chiều cao lớn hơn chúng.
Công dụng
Mạy pì có kích thước nhỏ, nhưng tăng trưởng nhanh, vách dày, dẻo, dễ uốn nên được dùng nhiều trong gia đình để đan lát, xây dựng, làm hàng mỹ nghệ, làm nguyên liệu giấy. Đặc biệt ở các thôn bản có nghề làm hương, thường trồng loài tre này để làm tăm. Măng mạy pì ăn ngon được nhân dân rất ưa chuộng.
Mạy pì có dáng bụi và thân đẹp, có thể đưa vào trồng làm cây cảnh trong các công viên, vườn gia đình. Các nhà chọn giống tre của Trung Quốc đang có ý định lai giữa mai xanh - bát độ (Dendrocalamus latiflorus) và mạy pì để tạo một loài tre lai có năng suất cao và phẩm chất măng ngon hơn.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân dân vẫn trồng mạy pì theo phương pháp cổ truyền bằng giống gốc. Chọn các cây bánh tẻ thân thẳng, đường kính to, không sâu bệnh, phát triển tốt để làm giống. Trước hết chặt phần gốc thân cây khí sinh lấy 1 đoạn có 3-4 lóng với 2-3 mắt. Moi đất ở gốc cây tre, khi lộ toàn bộ thân ngầm thì dùng dao thật sắc chặt đứt cổ thân ngầm, nơi nối thân ngầm với cây mẹ.
Nếu đất ẩm tốt, gần nhà có thể đem trồng ngay trong các hố đào sẵn với kích thước 40x40x40cm và có bón lót phân chuồng. Khi trồng nên đặt giống nghiêng một góc 45o rồi lấp đất trên thân ngầm khoảng 5-10cm rồi lèn thật chặt. Nếu đất khô, trồng xa nhà và trồng nhiều nên ươm cây trong vườn để chăm sóc cho đến khi ra rễ rồi mang trồng. Với cách trồng này tỷ lệ sống lên đến 100%. Cũng có thể trồng mạy pì bằng đoạn thân hay cả thân. Nếu dùng cả thân thì chọn cây bánh tẻ (12-15 tháng tuổi), chặt sát gốc và bỏ phần ngọn. Đặt toàn bộ thân vào một rãnh đã đào sẵn sâu khoảng 20-30cm, dưới lót một lớp phân chuồng hoai. Khi từ các mắt thân mọc ra rễ và cành với 4 lá có thể moi thân lên, cắt thành khúc mang trồng. Nếu trồng đoạn thân có thể cắt thân tre bánh tẻ thành từng đoạn mang 2-3 chồi, sau đó đặt nằm hay đặt nghiêng trong hố, phần mắt thân quay sang 2 bên, có bón lót phân chuồng hoai, rồi lấp đất kín trên đoạn thân khoảng 3-5cm.
Thời vụ trồng tốt nhất vào cuối xuân, đầu hè, khi chưa xuất hiện măng. Sau khi trồng nếu không có mưa, đất khô thì phải tưới nước để giữ ẩm cho cây.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Sau khi trồng 5 năm mạy pì bắt đầu cho khai thác. Để lấy thân, chỉ chặt các cây già trên 3 tuổi, khi thân không còn phấn trắng và đã chuyển từ màu xanh mạ sang xanh vàng. Nếu khai thác thân non, sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh măng của bụi tre. Muốn khai thác măng, chỉ nên khai thác các măng ra cuối vụ và măng mọc ở giữa để bụi tre phát triển đều và đẹp. Măng khai tác về nên ăn ngay. Nếu chưa ăn, có thể bóc hết bẹ, rồi ngâm nước để tránh làm măng bị đắng. Măng mạy pì thường ăn tươi, rất ít khi chế biến làm măng khô.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Mạy pì là loài tre đa tác dụng, phân bố tương đối hẹp, rất thích hợp cho việc trồng làm hàng rào hoặc trồng gần nhà để lấy thân hoặc măng. Nên khuyến khích các gia đình miền núi trồng loài tre này. Đồng thời cũng nghiên cứu để trồng mạy pì làm cây cảnh trong các công viên và gia đình ở các thành phố và đô thị lớn.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Viết Lâm (2005). Điều tra bổ sung thành phần loài, một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ yếu ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ; 2. Vũ Văn Dũng (1991). Các loài tre nứa ở Việt Nam, Tóm tắt một số công trình nghiên cứu 30 năm điều tra quy hoạch rừng, Viện điều tra quy hoạch rừng; 3. Academia Sinica (1996). Poale Flora Reipublicae Popularis Sinicae. Tomus 1: 165-167. Science Press (Trung văn); 4. Dransfield S. and Widjaja E.A. (Editors) (1995). Bamboo. Plant Resources of South- East Asia. 7: 89. Bogor Indonesia.
Tên khoa học: Dendrocalamus minor (McClure) Chia et H. L. Fung, 1980
Tên đồng nghĩa: Sinocalamus minor (McClure) Chia et H. L. Fung
Tên khác: Tre mỡ, tre mỡ lạng sơn, tre mỡ nhỏ, mạy tì, mạy vì, mạy nhùng (Tày, Nùng).
Họ: Hoà thảo – Poaceae
Phân họ: Tre – Bambusoideae
Đặc điểm hình thái
Thân ngầm dạng củ, thân tre mọc cụm; gần đứng thẳng, chiều cao 6-12m, đường kính (3-)6-8cm, ngọn cong hình cung hay rủ xuống. Thân cây có màu xanh mượt khi non và xanh hay vàng nhạt khi già. Lóng hình ống tròn, dài 30-45cm, không lông; lúc non phủ dày phấn trắng, nhất là phần bị che bởi bẹ mo; bề dày vách thân 5-5,6mm; vòng thân phẳng, vòng mo hơi nổi. Cành nhiều, mọc từ các lóng giữa thân, mọc cụm ở các đốt; cành chính không rõ. Bẹ mo sớm rụng, chất da, lúc non màu xanh lục, dạng lưỡi xẻng, mặt lưng phủ lông gai nhỏ màu nâu, áp sát, nhất là phần gốc; tai mo rất nhỏ dài 3mm, rộng 1mm, dễ rụng; lưỡi mo cao 3-8mm, mép phủ lông dạng lông mi nhỏ khá dài (6-8mm); phiến mo lật ra ngoài, hình lưỡi mác dạng trứng hay hình lưỡi mác, dài 6-10cm, mặt lưng không lông, gốc mặt bụng và mép đều có lông gai nhỏ. Lá 3-8, bẹ lá lúc đầu có lông gai nhỏ, thưa; về sau không lông; không có tai lá và lông mi; lưỡi lá cao 1mm, mép trên có xẻ răng nhỏ; phiến lá hình lưỡi mác, trung bình dài 10-25cm, rộng 1,5-3cm (nhưng to nhất có thể tới 35x7cm), gốc tròn, đầu nhọn dài nhỏ, hai mặt đều không lông, mặt dưới gần như có phấn trắng, màu lục xám, gân cấp hai 8-12 đôi, gân ngang nhỏ có thể thấy rõ mặt dưới phiến lá.
Cành cụm hoa dài nhỏ, không lá, chiều dài lóng 2-3,5cm, một phía hơi dẹt hay có rãnh dọc rộng, phủ lông mềm màu rỉ sắt, dày đặc, mỗi đốt đính 5-10 bông nhỏ, bông nhỏ dẹt, hình tròn dài dạng trứng, dài khoảng 1,2cm, rộng 4-7mm, lúc tươi màu tím, sau khi khô trở thành màu vàng nâu, chứa 4 hay 5 hoa, mày ngoài chất giấy hơi cứng, hình trứng rộng hay hình tim, dài 9-11mm, rộng 5- 6mm, gần không lông; mày trong mỏng, hình lưỡi mác hẹp, dài 6-8mm, rộng 2mm, lưng có lông nhỏ thưa, mép và trên 2 gờ đều có lông mảnh, giữa gờ có 3 gân không rõ, bao phấn mầu vàng, dài 5-6mm, trung đới nhô lên trên thành mũi nhọn nhỏ không lông; nhuỵ, trừ gốc ra, toàn bộ có lông nhung nhỏ, bầu hình trứng, vòi dài, nhỏ, đầu nhuỵ 1, thường cong cuộn, có lông nhung dạng bàn chải. Quả hình trứng dạng tròn thuôn, dài khoảng 5mm, đường kính 3,5mm, đầu có mỏ.
Các thông tin khác về thực vật khác
Ở Việt Nam có 3 loài tre thường mang tên địa phương là tre mỡ. Đó là loài tre mỡ hay tre mỡ lạng sơn (Dendrocalamus minor) phân bố nhiều ở các tỉnh biên giới phía Bắc. Tre mỡ hay tre là ngà bắc (Bambusa sinospinosa) phân bố ở miền Bắc và Bắc Trung Bộ) và tre mỡ (Bambusa vulgaris) phân bố ở các tỉnh phía Nam. Để tránh nhầm lẫn với 2 loài tre mỡ khác, chúng tôi dùng tên mạy pì, đây là tên gọi phổ biến của đồng bào Tày và Nùng sống ở 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn, nơi phân bố tập trung nhất của loài này.
Phân bố
Việt Nam:
Mạy pì được trồng nhiều ở các tỉnh biên giới phía Bắc như Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Thái nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang; tập trung nhiều nhất ở Lạng Sơn và Cao Bằng. Đặc biệt ở các huyện: Trùng Khánh, Hà Quảng, Thạch An (Cao Bằng), Tràng định, Văn Quan, Bắc Sơn, Văn Lãng và quanh thị xã Lạng Sơn (Lạng Sơn).
Thế giới:
Mạy pì chỉ phân bố ở Nam Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam). Hầu như chỉ gặp mạy pì ở trạng thái cây trồng. Rất ít khi gặp trong trạng thái tự nhiên. Người ta cho rằng, các tỉnh phía Bắc nướ ta và miền Nam Trung Quốc có thể là trung tâm phân bố của loài mạy pì.
Đặc điểm sinh học
Cây ưa khí hậu nhiệt đới mưa mùa có mùa đông lạnh, địa hình đồi núi thấp. Độ cao phân bố của mạy pì ở Việt Nam từ 100-500m. Theo tài liệu Trung Quốc, mạy pì có thể lên độ cao đến 1.200m so với mặt biển.
Cây ưa sáng hoặc hơi chịu bóng và ẩm, trên đất sâu dày, có nhiều mùn. Thường chỉ được trồng phân tán từng khóm hoặc vài khóm xung quanh nhà, trong vườn, dọc bờ ao, bờ suối hoặc ven đường đi. Mỗi khóm có thể đến 40-60 cây. Nếu không khai thác, mạy pì có thể mọc trên nhiều loại đất, nhưng thích hợp nhất là đất phong hoá từ đá vôi. Có thể trồng mạy pì ven chân núi hay trên sườn núi có độ dốc cao 30-350 (xã Phúc Sen, huyện Quảng Hoà, tỉnh Cao Bằng). Nơi đất ẩm, độ dốc không cao, mạy pì phát triển rất tốt. Cây không chịu úng, nếu bị đọng nước cây sẽ bị chết. Khi non, mạy pì là loài tre hơi ưa bóng, có thể trồng ở bìa rừng, xen với cây gỗ hay loài tre khác có chiều cao lớn hơn chúng.
Công dụng
Mạy pì có kích thước nhỏ, nhưng tăng trưởng nhanh, vách dày, dẻo, dễ uốn nên được dùng nhiều trong gia đình để đan lát, xây dựng, làm hàng mỹ nghệ, làm nguyên liệu giấy. Đặc biệt ở các thôn bản có nghề làm hương, thường trồng loài tre này để làm tăm. Măng mạy pì ăn ngon được nhân dân rất ưa chuộng.
Mạy pì có dáng bụi và thân đẹp, có thể đưa vào trồng làm cây cảnh trong các công viên, vườn gia đình. Các nhà chọn giống tre của Trung Quốc đang có ý định lai giữa mai xanh - bát độ (Dendrocalamus latiflorus) và mạy pì để tạo một loài tre lai có năng suất cao và phẩm chất măng ngon hơn.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Nhân dân vẫn trồng mạy pì theo phương pháp cổ truyền bằng giống gốc. Chọn các cây bánh tẻ thân thẳng, đường kính to, không sâu bệnh, phát triển tốt để làm giống. Trước hết chặt phần gốc thân cây khí sinh lấy 1 đoạn có 3-4 lóng với 2-3 mắt. Moi đất ở gốc cây tre, khi lộ toàn bộ thân ngầm thì dùng dao thật sắc chặt đứt cổ thân ngầm, nơi nối thân ngầm với cây mẹ.
Nếu đất ẩm tốt, gần nhà có thể đem trồng ngay trong các hố đào sẵn với kích thước 40x40x40cm và có bón lót phân chuồng. Khi trồng nên đặt giống nghiêng một góc 45o rồi lấp đất trên thân ngầm khoảng 5-10cm rồi lèn thật chặt. Nếu đất khô, trồng xa nhà và trồng nhiều nên ươm cây trong vườn để chăm sóc cho đến khi ra rễ rồi mang trồng. Với cách trồng này tỷ lệ sống lên đến 100%. Cũng có thể trồng mạy pì bằng đoạn thân hay cả thân. Nếu dùng cả thân thì chọn cây bánh tẻ (12-15 tháng tuổi), chặt sát gốc và bỏ phần ngọn. Đặt toàn bộ thân vào một rãnh đã đào sẵn sâu khoảng 20-30cm, dưới lót một lớp phân chuồng hoai. Khi từ các mắt thân mọc ra rễ và cành với 4 lá có thể moi thân lên, cắt thành khúc mang trồng. Nếu trồng đoạn thân có thể cắt thân tre bánh tẻ thành từng đoạn mang 2-3 chồi, sau đó đặt nằm hay đặt nghiêng trong hố, phần mắt thân quay sang 2 bên, có bón lót phân chuồng hoai, rồi lấp đất kín trên đoạn thân khoảng 3-5cm.
Thời vụ trồng tốt nhất vào cuối xuân, đầu hè, khi chưa xuất hiện măng. Sau khi trồng nếu không có mưa, đất khô thì phải tưới nước để giữ ẩm cho cây.
Khai thác, chế biến và bảo quản
Sau khi trồng 5 năm mạy pì bắt đầu cho khai thác. Để lấy thân, chỉ chặt các cây già trên 3 tuổi, khi thân không còn phấn trắng và đã chuyển từ màu xanh mạ sang xanh vàng. Nếu khai thác thân non, sẽ ảnh hưởng đến khả năng sinh măng của bụi tre. Muốn khai thác măng, chỉ nên khai thác các măng ra cuối vụ và măng mọc ở giữa để bụi tre phát triển đều và đẹp. Măng khai tác về nên ăn ngay. Nếu chưa ăn, có thể bóc hết bẹ, rồi ngâm nước để tránh làm măng bị đắng. Măng mạy pì thường ăn tươi, rất ít khi chế biến làm măng khô.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Mạy pì là loài tre đa tác dụng, phân bố tương đối hẹp, rất thích hợp cho việc trồng làm hàng rào hoặc trồng gần nhà để lấy thân hoặc măng. Nên khuyến khích các gia đình miền núi trồng loài tre này. Đồng thời cũng nghiên cứu để trồng mạy pì làm cây cảnh trong các công viên và gia đình ở các thành phố và đô thị lớn.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Viết Lâm (2005). Điều tra bổ sung thành phần loài, một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ yếu ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ; 2. Vũ Văn Dũng (1991). Các loài tre nứa ở Việt Nam, Tóm tắt một số công trình nghiên cứu 30 năm điều tra quy hoạch rừng, Viện điều tra quy hoạch rừng; 3. Academia Sinica (1996). Poale Flora Reipublicae Popularis Sinicae. Tomus 1: 165-167. Science Press (Trung văn); 4. Dransfield S. and Widjaja E.A. (Editors) (1995). Bamboo. Plant Resources of South- East Asia. 7: 89. Bogor Indonesia.