Mạy bông
Mạy bông
Mạy bông
Tên khoa học: Bambusa tulda Roxb. 1832
Tên đồng nghĩa: Bambusa macala Buch- Ham. ex Munro; Dendrocalamus tulda (Roxb.)Voigt, 1845.
Tên khác: Tre song, tre xiêm; mạy sang ba
Họ: Hoà thảo – Poaceae
Phân họ: Tre – Bambusoideae
Tên thương phẩm: Bengal bamboo (Anh)
Đặc điểm hình thái
Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm hơi thưa; chiều cao thân 8-15m, đường kính 5-10cm, ngọn hơi cong, phần dưới thẳng, chiều dài lóng 40-60cm, lúc non phủ phấn sáp trắng, vách thân khá dày 1-2,5cm, đốt không nổi, phía trên vòng mo một số đốt ở gốc có vòng lông tơ màu trắng xám và có rễ khí sinh; chia cành thường bắt đầu từ đốt thứ nhất kể từ gốc; cành ít đến nhiều, mọc cụm, cành chính rõ, dài và to hơn cành khác, các cành ở dưới thường cong xuống, các cành ở giữa thân vươn dài và gần nằm ngang. Bẹ mo rụng sớm, chất da dày, lúc non mặt lưng phủ sáp trắng và mọc dày lông gai, màu nâu tối dễ rụng; đỉnh hình cung tròn không đối xứng, mép phủ lông mảnh rất ngắn; tai mo không bằng nhau rõ, có nếp nhăn rõ dạng sóng, mép có lông mi cong, tai to lệch nghiêng xuống dưới rõ rệt, mức độ lệch có thể tới 1/3 chiều dài cả bẹ mo, dài 4,5-5cm, rộng khoảng 1,5cm; lưỡi mo cao 1,5-2mm, mép nguyên, không lông hay phủ lông mảnh rất ngắn; phiến mo đứng thẳng, hình trứng rộng gần đối xứng, mặt lưng không lông, mặt bụng phủ lông cứng ráp, đầu nhọn, gốc sau khi hơi thu hẹp hình tim hay hình tròn thì trải ra ngoài 2 bên và nối liền với tai mo, phần nối liền này dài 1-1,3cm, bề rộng gốc phiến mo bằng khoảng 5/8 bề rộng đầu bẹ mo, mép gần gốc dạng sóng và phủ lông mảnh ngắn. Lá 5-10, phiến hình dải rộng đến hình lưỡi mác dạng dải, dài 15-20cm, rộng 2-4cm, mặt trên không lông hay đôi khi gần gốc phủ lông cứng ngắn, mặt dưới màu lục nhạt và mọc dày lông mềm ngắn, đầu nhọn, có mũi nhọn nhỏ ráp cong xoắn, gốc gần hình tròn hay hình nêm; cuống lá gần không lông, dài khoảng 2mm; bẹ lá không lông, lườn dọc rõ, lưng có gờ; tai lá thường không phát triển hoặc khuyết, lông mi miệng bẹ mỗi bên chỉ 1-2 chiếc hay không tồn tại; lưỡi lá gần hình cắt ngang, cao 1mm, mép xẻ răng nhỏ.
Bông nhỏ đơn độc hay 2-5 chiếc mọc tụm ở các đốt của cành cụm hoa, bông nhỏ hình dải đến hình lưỡi mác dạng dải, dài 2,5-7,5cm, rộng khoảng 5mm, mang 4-6 hoa, đỉnh có 1 hay 2 hoa nhỏ bất thụ; mày ngoài hình trứng đến hình tròn dài, dài 1,5-2,5cm, rộng 7,5mm, không lông, có nhiều gân, đầu nhọn, vớimũi nhọn ngắn, đôi khi mép hơi phủ lông mảnh; mày trong hơi ngắn hơn mày ngoài, có 2 gờ, trên gờ phủ lông mảnh, giữa các gờ có 5-7 gân; mày cực nhỏ 3; bao phấn màu đỏ tím, dài 7,5-10mm, đầu tù hay hơi lõm; bầu hình trứng ngược hay hình tròn dài dạng trứng ngược, đỉnh dày lên và phủ lông cứng dài; vòi rất ngắn và phủ lông cứng, đầu nhuỵ 3, dạng lông vũ. Quả hình tròn dài, dài 7,5mm, mặt bụng có rốn hạt dạng máng rãnh dọc, đỉnh phủ lông cứng dài.
Phân bố
Việt Nam:
Mới gặp mậy bông phân bố ở các tỉnh vùng Tây Bắc như: Lai Châu, Điện Biện, Sơn La. Vùng mậy bông mọc hoang dã và được trồng nhiều nhất và lâu đời nhất là các huyện Mộc Châu và Thuận Châu thuộc tỉnh Sơn La.
Thế giới:
Mậy bông phân bố ở khu vực Nam và Đông Nam Á châu, từ Ấn Độ, Bangladesh, đến Myanmar, Thái Lan, Lào. Ở đây chúng vừa mọc hoang dã, vừa được trồng. Mậy bông đã được nhập vào trồng ở Philipine và Indonesia.
Đặc điểm sinh học
Ngoài tự nhiên, mậy bông phân bố trong các rừng nửa rụng lá hay rụng lá ở vùng núi, nơi có nhiệt độ trung bình cao và lượng mưa thấp, thường không quá 1.500mm/năm và chia làm 2 mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Thường gặp chúng trong các địa hình bằng phẳng ven chân núi, trong thung lũng, dọc sông suối; nơi có độ ẩm cao, mậy bông thường là cây xanh quanh năm và mọc chung với cơm lam (Cephalostachyum pergracile), nơi khô hạn, lượng mưa thấp, cây thường rụng lá vào mùa khô và mọc chung với mạy sang (Dendrocalamus membranaceus), mạy puốc cai na (D. pachystachys). Cây thường mọc thành đám nhỏ, không thành rừng lớn; chu kỳ khuy của mậy bông ở Tây Bắc khoảng 30-50 năm (theo điều tra nhân dân); thời gian khuy thường kéo dài 2 năm trong một vùng. Nhưng ngoài thời gian khuy, mậy bông vẫn có hiện tượng ra hoa từng khóm hoặc từng cây. Cây tái sinh tốt bằng hạt sau khi khuy
Tăng trưởng và đẻ măng của mậy bông khá nhanh. Ở Bangladesh, theo rõi sự phát triển của 20 khóm mạy bông trồng bằng phương pháp vô tính cho thấy, con số bình quân của mỗi bụi: năm đầu có 3 cây, năm thứ năm 8, 8 cây, năm thứ 10 giảm chỉ còn 2,7 cây; chu vi của mỗi bụi cũng thay đổi, trong năm đầu là 0,87m, năm thứ năm là 4,4m và năm thứ 10 là 5,9m; chiều cao của cây cũng tăng từ 3,5m trong năm thứ nhất, 12m trong năm thứ năm và 16m trong năm thứ 10. Măng xuất hiện vào đầu mùa mưa, lượng tăng trưởng của cây non rất lớn, có thể đến 70cm/ngày; từ khi măng xuất hiện đến khi cây tre phát triển đủ cành lá khoảng 2-3 tháng. Sau đó cây không phát triển về chiều cao và đường kính nữa.
Công dụng
Thân mạy bông được dùng vào nhiều việc như: xây dựng, đan lát, làm đồ đạc, nông cụ và làm nguyên liệu chế biến bột giấy. Măng mạy bông ăn được nhưng có vị hơi đắng, nên nhiều nơi không dùng làm thức ăn. Ở Thái Lan, mạy bông thường dùng trong thủ công nghiệp và dùng các loại nhựa dầu để đánh bóng; đôi khi mạy bông được trồng làm hàng rào quanh vườn hoặc hàng rào chắn gió.
Kích thước của sợi thân: chiều dài 1,45-3,0mm, đường kính 15-20mm, đường kính khoảng 5-5,6mm, vách dày 3,2-7,5mm. Tính chất cơ lý: ở độ ẩm 12% (ngoài trời), có tỷ trọng 722kg/cm3; modul đàn hồi 10.070-12.304N/mm2; lực ép dọc 68N/mm2. Ở độ ẩm 73,6 %; tỷ trọng 658kg/m3; module đàn hồi 7.980N/mm2, lực ép dọc thớ 40,7N/mm2.
Thành phần hoá học của thân gồm holocellulose 64%, pentosan 18%; lignin 25%, tro 2-3%; chất tan trong nước lạnh 2,6%, trong nước ấm 5%, trong dung dịch cồn - benzen 1,9% và trong dung dịch NaOH 21,8%.
Măng ăn được, nhưng không được dùng phổ biến.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Có thể trồng mạy bông bằng hạt, gốc, đoạn thân và bằng nuôi cấy mô. Trong môi trường không khí bình thường, hạt chỉ có thể giữ khả năng nảy mầm trong vòng 1 tháng sau khi thu hoạch. Nếu được bảo quản trong bình kín hoặc có chất chống ẩm như silicagen, hạt có thề giữ khả năng nảy mầm trong khoảng 18 tháng. Trong lượng 1.000hạt là 70g. Tỷ lệ hạt nảy mầm 70% sau 8 tuần gieo. Sau khi gieo cần bón phân đạm và lân cho cây con. Ở Ấn Độ cây con mang trồng tốt nhất khi đạt 18-20 tuần tuổi. Ở Bangladesh, người dân thường vào rừng thu các cây mạ có 2-4 lá, mang về cấy trong bầu ở vườn ươm, sau đó mới mang trồng.
Nếu trồng bằng thân ngầm, có thể trồng trực tiếp trên đất trồng và thu được kết quả tốt, tỷ lệ sống hơn 90%. Cây măng đã cao 1,35m sau khi trồng được 2 tháng rưỡi. Giống bằng thân ngầm tốt nhất được đánh từ cây bánh tẻ (1-2năm tuổi) vào đầu mùa mưa, đào hố kích thước 40x40x40cm, có bón lót bằng phân chuồng hoai. Cự ly giữa các cây: 8x8m.
Trồng bằng đoạn thân cho kết quả khác nhau. Ở Bangladesh trồng bằng đoạn thân dài 1-1,5m, mang 3-4 lóng, có chồi mắt chỉ cho kết quả 10% cây nảy mầm. Ở Ấn Độ trồng bằng đoạn thân của cây bánh tẻ 1 năm tuổi với 2 đốt, đặt ngang, lấp đất sâu 5-10cm, cho kết quả tương đối tốt. Có thể sử dụng chất kích thích sinh trưởng coumarin, NAA hay acid boric 10 hay 100mg/l.
Mùa trồng tốt nhất vào tháng 5, vào đầu mùa mưa. Trồng cuối mùa mưa, tháng 10 cho kết quả kém hơn. Có thể trồng bằng giống lấy từ cây 2 tuổi (để nguyên cả cây): Sau khi trồng 9 tháng đã có 4 cây cao tới 3m và có rễ phát triển.
Bước đầu nghiên cứu cho thấy cũng có thể trồng mạy bông bằng cành chét lấy ra từ các thân của cây.
Chăm sóc. Mạy bông phát triển rất khoẻ nên đòi hỏi ít công chăm sóc. Chú ý phải giữ ẩm cho cây khi mới trồng; nếu trời khô hạn quá phải tưới nước. Nên bón phân hữu cơ để cây tăng trưởng nhanh và cho măng nhiều. Chú ý loại côn trùng hại măng Sarocladium oryza, chúng phá hại cả măng và thân non.
khai thác, chế biến và bảo quản
Nếu lấy măng tốt nhất là đào ngay khi măng vừa ló ra khỏi mặt đất, lúc đó măng đỡ đắng.
Sau khi trồng 5-7 năm có thể bắt đầu thu hoạch thân tre. Nên tiến hành khai thác cây theo phương thức chặt chọn. chỉ lấy các thân đủ hoặc trên 3 tuổi, nếu dùng trong xây dựng; có thể dùng cây 2 tuổi để làm bột giấy. Luôn luôn để lại ít nhất 3-6 thân, phân bố đều trong khóm. Có thể chặt hàng năm hay theo chu kỳ 4 năm.
Ở bang Assam, Ấn Độ, năng suất của mạy bông khoảng 3 tấn/ha/năm. Nếu muốn dùng thân mạy bông trong xây dựng, sau khi chặt cần ngâm thân cây trong dòng nước chảy trong vòng 10-20 ngày để tránh bị mối mọt tấn công. Thường phơi thân ngoài không khí khoảng 1,5-3,5 tháng trước khi dùng để tránh nứt nẻ, vì thân mạy bông hay bị nứt dọc theo chiều dài lóng. Để tăng độ bền có thể dùng dung dịch sodium carbonate, hydroxide calcium hoặc sulphate đồng.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Mạy bông là loài tre đa tác dụng, nhưng thường chỉ được sử dụng ở những địa phương mà chúng phân bố tự nhiên. Cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa đối với loài tre này nếu muốn phát triển chúng ở ngoài khu phân bố. Cần phải bảo vệ các khu rừng có mạy bông phân bố tự nhiên ở tỉnh Sơn La, vì hiện nay diện tích các loại rừng này đang suy giảm rất mạnh. Có thể chọn mậy bông là loài tre trồng cho vùng Tây Bắc.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000). Thực vật rừng, Nxb Nông nghiệp; 2. Lê Viết Lâm (2005). Điều tra bổ sung thành phần loài, một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ yếu ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ; 3. Ngô Quang Đê (1994). Gây trồng tre trúc, Nxb Nông nghiệp; 4. Phạm hoàng Hộ (2000). Cây cỏ Việt Nam. Tập III: 608. Nxb Tre, thành phố Hồ Chí Minh; 5. Vũ Văn Dũng (1991). Các loài tre nứa ở Việt Nam, Tóm tắt một số công trình nghiên cứu 30 năm điều tra quy hoạch rừng, Viện điều tra quy hoạch rừng; 5. Academia Sinica (1996). Poales. Flora Reipublicae Popularis Sinicae. Tomus 1: 80-82. Science Press. (Trung văn); 6. Dransfield S. and Widjaja E.A. (Editors) (1995). Bamboo. Plant Resources of South-East Asia. 7: 69-72. Bogor Indonesia.
Tên khoa học: Bambusa tulda Roxb. 1832
Tên đồng nghĩa: Bambusa macala Buch- Ham. ex Munro; Dendrocalamus tulda (Roxb.)Voigt, 1845.
Tên khác: Tre song, tre xiêm; mạy sang ba
Họ: Hoà thảo – Poaceae
Phân họ: Tre – Bambusoideae
Tên thương phẩm: Bengal bamboo (Anh)
Đặc điểm hình thái
Thân ngầm dạng củ, thân khí sinh mọc cụm hơi thưa; chiều cao thân 8-15m, đường kính 5-10cm, ngọn hơi cong, phần dưới thẳng, chiều dài lóng 40-60cm, lúc non phủ phấn sáp trắng, vách thân khá dày 1-2,5cm, đốt không nổi, phía trên vòng mo một số đốt ở gốc có vòng lông tơ màu trắng xám và có rễ khí sinh; chia cành thường bắt đầu từ đốt thứ nhất kể từ gốc; cành ít đến nhiều, mọc cụm, cành chính rõ, dài và to hơn cành khác, các cành ở dưới thường cong xuống, các cành ở giữa thân vươn dài và gần nằm ngang. Bẹ mo rụng sớm, chất da dày, lúc non mặt lưng phủ sáp trắng và mọc dày lông gai, màu nâu tối dễ rụng; đỉnh hình cung tròn không đối xứng, mép phủ lông mảnh rất ngắn; tai mo không bằng nhau rõ, có nếp nhăn rõ dạng sóng, mép có lông mi cong, tai to lệch nghiêng xuống dưới rõ rệt, mức độ lệch có thể tới 1/3 chiều dài cả bẹ mo, dài 4,5-5cm, rộng khoảng 1,5cm; lưỡi mo cao 1,5-2mm, mép nguyên, không lông hay phủ lông mảnh rất ngắn; phiến mo đứng thẳng, hình trứng rộng gần đối xứng, mặt lưng không lông, mặt bụng phủ lông cứng ráp, đầu nhọn, gốc sau khi hơi thu hẹp hình tim hay hình tròn thì trải ra ngoài 2 bên và nối liền với tai mo, phần nối liền này dài 1-1,3cm, bề rộng gốc phiến mo bằng khoảng 5/8 bề rộng đầu bẹ mo, mép gần gốc dạng sóng và phủ lông mảnh ngắn. Lá 5-10, phiến hình dải rộng đến hình lưỡi mác dạng dải, dài 15-20cm, rộng 2-4cm, mặt trên không lông hay đôi khi gần gốc phủ lông cứng ngắn, mặt dưới màu lục nhạt và mọc dày lông mềm ngắn, đầu nhọn, có mũi nhọn nhỏ ráp cong xoắn, gốc gần hình tròn hay hình nêm; cuống lá gần không lông, dài khoảng 2mm; bẹ lá không lông, lườn dọc rõ, lưng có gờ; tai lá thường không phát triển hoặc khuyết, lông mi miệng bẹ mỗi bên chỉ 1-2 chiếc hay không tồn tại; lưỡi lá gần hình cắt ngang, cao 1mm, mép xẻ răng nhỏ.
Bông nhỏ đơn độc hay 2-5 chiếc mọc tụm ở các đốt của cành cụm hoa, bông nhỏ hình dải đến hình lưỡi mác dạng dải, dài 2,5-7,5cm, rộng khoảng 5mm, mang 4-6 hoa, đỉnh có 1 hay 2 hoa nhỏ bất thụ; mày ngoài hình trứng đến hình tròn dài, dài 1,5-2,5cm, rộng 7,5mm, không lông, có nhiều gân, đầu nhọn, vớimũi nhọn ngắn, đôi khi mép hơi phủ lông mảnh; mày trong hơi ngắn hơn mày ngoài, có 2 gờ, trên gờ phủ lông mảnh, giữa các gờ có 5-7 gân; mày cực nhỏ 3; bao phấn màu đỏ tím, dài 7,5-10mm, đầu tù hay hơi lõm; bầu hình trứng ngược hay hình tròn dài dạng trứng ngược, đỉnh dày lên và phủ lông cứng dài; vòi rất ngắn và phủ lông cứng, đầu nhuỵ 3, dạng lông vũ. Quả hình tròn dài, dài 7,5mm, mặt bụng có rốn hạt dạng máng rãnh dọc, đỉnh phủ lông cứng dài.
Phân bố
Việt Nam:
Mới gặp mậy bông phân bố ở các tỉnh vùng Tây Bắc như: Lai Châu, Điện Biện, Sơn La. Vùng mậy bông mọc hoang dã và được trồng nhiều nhất và lâu đời nhất là các huyện Mộc Châu và Thuận Châu thuộc tỉnh Sơn La.
Thế giới:
Mậy bông phân bố ở khu vực Nam và Đông Nam Á châu, từ Ấn Độ, Bangladesh, đến Myanmar, Thái Lan, Lào. Ở đây chúng vừa mọc hoang dã, vừa được trồng. Mậy bông đã được nhập vào trồng ở Philipine và Indonesia.
Đặc điểm sinh học
Ngoài tự nhiên, mậy bông phân bố trong các rừng nửa rụng lá hay rụng lá ở vùng núi, nơi có nhiệt độ trung bình cao và lượng mưa thấp, thường không quá 1.500mm/năm và chia làm 2 mùa khô và mùa mưa rõ rệt. Thường gặp chúng trong các địa hình bằng phẳng ven chân núi, trong thung lũng, dọc sông suối; nơi có độ ẩm cao, mậy bông thường là cây xanh quanh năm và mọc chung với cơm lam (Cephalostachyum pergracile), nơi khô hạn, lượng mưa thấp, cây thường rụng lá vào mùa khô và mọc chung với mạy sang (Dendrocalamus membranaceus), mạy puốc cai na (D. pachystachys). Cây thường mọc thành đám nhỏ, không thành rừng lớn; chu kỳ khuy của mậy bông ở Tây Bắc khoảng 30-50 năm (theo điều tra nhân dân); thời gian khuy thường kéo dài 2 năm trong một vùng. Nhưng ngoài thời gian khuy, mậy bông vẫn có hiện tượng ra hoa từng khóm hoặc từng cây. Cây tái sinh tốt bằng hạt sau khi khuy
Tăng trưởng và đẻ măng của mậy bông khá nhanh. Ở Bangladesh, theo rõi sự phát triển của 20 khóm mạy bông trồng bằng phương pháp vô tính cho thấy, con số bình quân của mỗi bụi: năm đầu có 3 cây, năm thứ năm 8, 8 cây, năm thứ 10 giảm chỉ còn 2,7 cây; chu vi của mỗi bụi cũng thay đổi, trong năm đầu là 0,87m, năm thứ năm là 4,4m và năm thứ 10 là 5,9m; chiều cao của cây cũng tăng từ 3,5m trong năm thứ nhất, 12m trong năm thứ năm và 16m trong năm thứ 10. Măng xuất hiện vào đầu mùa mưa, lượng tăng trưởng của cây non rất lớn, có thể đến 70cm/ngày; từ khi măng xuất hiện đến khi cây tre phát triển đủ cành lá khoảng 2-3 tháng. Sau đó cây không phát triển về chiều cao và đường kính nữa.
Công dụng
Thân mạy bông được dùng vào nhiều việc như: xây dựng, đan lát, làm đồ đạc, nông cụ và làm nguyên liệu chế biến bột giấy. Măng mạy bông ăn được nhưng có vị hơi đắng, nên nhiều nơi không dùng làm thức ăn. Ở Thái Lan, mạy bông thường dùng trong thủ công nghiệp và dùng các loại nhựa dầu để đánh bóng; đôi khi mạy bông được trồng làm hàng rào quanh vườn hoặc hàng rào chắn gió.
Kích thước của sợi thân: chiều dài 1,45-3,0mm, đường kính 15-20mm, đường kính khoảng 5-5,6mm, vách dày 3,2-7,5mm. Tính chất cơ lý: ở độ ẩm 12% (ngoài trời), có tỷ trọng 722kg/cm3; modul đàn hồi 10.070-12.304N/mm2; lực ép dọc 68N/mm2. Ở độ ẩm 73,6 %; tỷ trọng 658kg/m3; module đàn hồi 7.980N/mm2, lực ép dọc thớ 40,7N/mm2.
Thành phần hoá học của thân gồm holocellulose 64%, pentosan 18%; lignin 25%, tro 2-3%; chất tan trong nước lạnh 2,6%, trong nước ấm 5%, trong dung dịch cồn - benzen 1,9% và trong dung dịch NaOH 21,8%.
Măng ăn được, nhưng không được dùng phổ biến.
Kỹ thuật nhân giống, gây trồng
Có thể trồng mạy bông bằng hạt, gốc, đoạn thân và bằng nuôi cấy mô. Trong môi trường không khí bình thường, hạt chỉ có thể giữ khả năng nảy mầm trong vòng 1 tháng sau khi thu hoạch. Nếu được bảo quản trong bình kín hoặc có chất chống ẩm như silicagen, hạt có thề giữ khả năng nảy mầm trong khoảng 18 tháng. Trong lượng 1.000hạt là 70g. Tỷ lệ hạt nảy mầm 70% sau 8 tuần gieo. Sau khi gieo cần bón phân đạm và lân cho cây con. Ở Ấn Độ cây con mang trồng tốt nhất khi đạt 18-20 tuần tuổi. Ở Bangladesh, người dân thường vào rừng thu các cây mạ có 2-4 lá, mang về cấy trong bầu ở vườn ươm, sau đó mới mang trồng.
Nếu trồng bằng thân ngầm, có thể trồng trực tiếp trên đất trồng và thu được kết quả tốt, tỷ lệ sống hơn 90%. Cây măng đã cao 1,35m sau khi trồng được 2 tháng rưỡi. Giống bằng thân ngầm tốt nhất được đánh từ cây bánh tẻ (1-2năm tuổi) vào đầu mùa mưa, đào hố kích thước 40x40x40cm, có bón lót bằng phân chuồng hoai. Cự ly giữa các cây: 8x8m.
Trồng bằng đoạn thân cho kết quả khác nhau. Ở Bangladesh trồng bằng đoạn thân dài 1-1,5m, mang 3-4 lóng, có chồi mắt chỉ cho kết quả 10% cây nảy mầm. Ở Ấn Độ trồng bằng đoạn thân của cây bánh tẻ 1 năm tuổi với 2 đốt, đặt ngang, lấp đất sâu 5-10cm, cho kết quả tương đối tốt. Có thể sử dụng chất kích thích sinh trưởng coumarin, NAA hay acid boric 10 hay 100mg/l.
Mùa trồng tốt nhất vào tháng 5, vào đầu mùa mưa. Trồng cuối mùa mưa, tháng 10 cho kết quả kém hơn. Có thể trồng bằng giống lấy từ cây 2 tuổi (để nguyên cả cây): Sau khi trồng 9 tháng đã có 4 cây cao tới 3m và có rễ phát triển.
Bước đầu nghiên cứu cho thấy cũng có thể trồng mạy bông bằng cành chét lấy ra từ các thân của cây.
Chăm sóc. Mạy bông phát triển rất khoẻ nên đòi hỏi ít công chăm sóc. Chú ý phải giữ ẩm cho cây khi mới trồng; nếu trời khô hạn quá phải tưới nước. Nên bón phân hữu cơ để cây tăng trưởng nhanh và cho măng nhiều. Chú ý loại côn trùng hại măng Sarocladium oryza, chúng phá hại cả măng và thân non.
khai thác, chế biến và bảo quản
Nếu lấy măng tốt nhất là đào ngay khi măng vừa ló ra khỏi mặt đất, lúc đó măng đỡ đắng.
Sau khi trồng 5-7 năm có thể bắt đầu thu hoạch thân tre. Nên tiến hành khai thác cây theo phương thức chặt chọn. chỉ lấy các thân đủ hoặc trên 3 tuổi, nếu dùng trong xây dựng; có thể dùng cây 2 tuổi để làm bột giấy. Luôn luôn để lại ít nhất 3-6 thân, phân bố đều trong khóm. Có thể chặt hàng năm hay theo chu kỳ 4 năm.
Ở bang Assam, Ấn Độ, năng suất của mạy bông khoảng 3 tấn/ha/năm. Nếu muốn dùng thân mạy bông trong xây dựng, sau khi chặt cần ngâm thân cây trong dòng nước chảy trong vòng 10-20 ngày để tránh bị mối mọt tấn công. Thường phơi thân ngoài không khí khoảng 1,5-3,5 tháng trước khi dùng để tránh nứt nẻ, vì thân mạy bông hay bị nứt dọc theo chiều dài lóng. Để tăng độ bền có thể dùng dung dịch sodium carbonate, hydroxide calcium hoặc sulphate đồng.
Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn
Mạy bông là loài tre đa tác dụng, nhưng thường chỉ được sử dụng ở những địa phương mà chúng phân bố tự nhiên. Cần phải có nhiều nghiên cứu hơn nữa đối với loài tre này nếu muốn phát triển chúng ở ngoài khu phân bố. Cần phải bảo vệ các khu rừng có mạy bông phân bố tự nhiên ở tỉnh Sơn La, vì hiện nay diện tích các loại rừng này đang suy giảm rất mạnh. Có thể chọn mậy bông là loài tre trồng cho vùng Tây Bắc.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Mộng Chân, Lê Thị Huyên (2000). Thực vật rừng, Nxb Nông nghiệp; 2. Lê Viết Lâm (2005). Điều tra bổ sung thành phần loài, một số đặc điểm sinh thái các loài tre chủ yếu ở Việt Nam, Đề tài cấp Bộ; 3. Ngô Quang Đê (1994). Gây trồng tre trúc, Nxb Nông nghiệp; 4. Phạm hoàng Hộ (2000). Cây cỏ Việt Nam. Tập III: 608. Nxb Tre, thành phố Hồ Chí Minh; 5. Vũ Văn Dũng (1991). Các loài tre nứa ở Việt Nam, Tóm tắt một số công trình nghiên cứu 30 năm điều tra quy hoạch rừng, Viện điều tra quy hoạch rừng; 5. Academia Sinica (1996). Poales. Flora Reipublicae Popularis Sinicae. Tomus 1: 80-82. Science Press. (Trung văn); 6. Dransfield S. and Widjaja E.A. (Editors) (1995). Bamboo. Plant Resources of South-East Asia. 7: 69-72. Bogor Indonesia.