ĐƯỚC ĐÔI

ĐƯỚC ĐÔI

ĐƯỚC ĐÔI

  • Tên khoa học : Rhizophora apiculata Blume, 1827
  • Họ : Đước - Rhizophoraceae
  • Bộ : -
  • Nhóm loài cây LSNG: tanin
  • Phân bố : ven biển miền Trung và miền Nam

  • 1.1.1Hình thái

    Cây gỗ, có thể cao tới 20-30m, đường kính thân 30-40cm, đôi khi tới 60-70cm. Ở nơi đất cao, nghèo chất dinh dưỡng và ít ngập triều cây thường có kích thước nhỏ hơn. Vỏ thân màu đỏ sẫm hoặc đen, vỏ thô với những vết nứt ngang quanh thân. Rễ cọc ít phát triển, chủ yếu là các rễ chống phát triển, gồm 8-12 rễ mọc ra từ phần gốc thân thành hình gọng nơm (“rễ chân nơm”) có tác dụng giữ cây đứng vững trong đất bùn lấy nhão, đồng thời hút nước và chất dinh dưỡng để nuôi cây.
    Lá đơn, mọc đối, chất da, hình bầu dục thuôn, đầu nhọn, màu xanh, nhẵn ở mặt trên và nhạt hơn ở mặt dưới. Cuống lá dài 1,5-2cm. Lá kèm lớn, màu hồng hay đỏ nhạt.
    Cụm hoa mọc ở nách, gồm 2 nhánh, mỗi nhánh mang 2 hoa. Hoa có 4 lá đài dày, màu vàng  nhạt, tồn tại trên quả, tràng 4 cánh màu vàng nhạt, có lông dày ở mép và thưa hơn ở lưng. Nhị 8.
    Quả hình quả lê, đường kính 1-2cm, màu hơi nâu, mang trụ mầm. Trụ mầm dài 20-30cm, phía dưới phình to; trụ mầm già có “vòng cổ” (nằm giữa quả và trụ mầm).

    1.1.2Các thông tin khác về thực vật

    Trong chi Đước (Rhizophora) ở Việt Nam có 3 loài, gồm:
    1. Đước đôi (Rhizophora apiculata Blume). Chỉ phân bố ở Nam Bộ (từ Đồng Nai vào đến Cà Mau) và Trung Bộ (Khánh Hoà, Ninh Thuận). Loài cây gỗ lớn, cao 20-30m, lá nhọn đầu, trụ mầm ngắn, 20-30cm.
    2. Đước nhọn, đưng, đâng, hay đước bộp (R. mucronata Poir. in Lamk., 1804). Phân bố từ các tỉnh phía Bắc (Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh) và đến Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Loài cây gỗ trung bình, nhỏ hơn đước đôi, nhưng lá có mũi nhọn, to, dày hơn đước đôi; trụ mầm dài nhất trong 3 loài đước, chiều dài 30-90cm.
    3. Đước vòi hay đước chằng (R. stylosa Griff., 1854). Phân bố rộng hơn cả, đã gặp ở Quảng Ninh, Hà Tĩnh (miền Bắc) và hầu hết các tỉnh ven biển miền Nam Việt Nam. Loài cây gỗ nhỏ, chỉ cao khoảng 10m, lá dày, có mũi nhọn; trụ mầm ngắn, 25-35cm.

    1.1.3Phân bố

    Việt Nam:
    Đước đôi phân bố ven biển miền Trung và miền Nam đến tận Cà Mau; nhưng nhiều và tập trung nhất ở miền Nam (Cà Mau, Bến Tre, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ Chí Minh) với khoảng 60.000-70.000ha.
    Thế giới:
    Đước đôi phân bố tương đối rộng ở các vùng ven biển nhiệt đới (Malaysia, Cămpuchia, Indonesia, Bangladesh, Thái Lan, Philippin, Papua New Guinea, Australia …).

    1.1.4Đặc điểm sinh học

    Cây sống trên đất ngập triều thấp đến trung bình ở vùng cửa sông ven biển. Nó có thể phân bố thành các quần thụ tập trung có diện tích rộng lớn với loài đước chiếm ưu thế tuyệt đối (rừng thuần loại) ở Cà Mâu, Bến Tre, Cần Giờ hoặc cùng mọc với một số cây ngập mặn khác tạo ra các khu rừng hỗn giao nhiều loài cây gỗ như: Đước đôi + mắm + vẹt dù + dà + dừa nước… Cây ưa đất thoáng khí, giầu chất hữu cơ, đất bùn mềm sâu hoặc bùn cát, ưa khí hậu nóng ẩm, cường độ chiếu sáng mạnh, độ mặn thích hợp 2,5-3,5 %, cũng có thể chịu đựng được độ mặn cao hơn. Cây điều tiết muối bằng cách cản muối ở rễ và tiết muối qua tuyến tiết trên lá và cành non, ưa các địa hình có độ ngập triều trung bình 100-300 ngày trong năm để phát triển. Vùng bãi bồi ven biển, vùng trũng nội địa… có thời gian ngập trên 300 ngày/năm hoặc độ ngập triều dưới 100 ngày/năm không thích hợp với sự tăng trưởng của đước.
    Hạt nảy mầm khi quả còn trên cây (hiện tượng sinh con) thành trụ mầm. Về sau, khi trụ mầm chín rời khỏi quả, rụng xuống bùn và mọc thành cây. Nếu trụ mầm rơi xuống gặp lúc triều cao, không cắm được vào bùn, bị dòng nước hoặc sóng cuốn đi đến nơi khác, chúng vẫn giữ được khả năng sống trong nhiều tháng và nảy mầm được, nếu như tại nơi mới có điều kiện sinh thái thích hợp.
    Đước đôi là cây tăng trưởng khá nhanh. Hàng năm cây đước ở Ngọc Hiển, Cà Mau tăng trưởng chiều cao 0,85m/năm và tăng trưởng đường kính 0,75cm/năm. Còn tại Cần Giờ, Tp Hồ Chí Minh, đước đôi tăng trưởng chiều cao 0,45-0,75m/năm và đường kính 0,46-0,81cm/năm
     Đối với rừng đước đôi thuần loại ở giai đoạn 1-5 tuổi là thời kỳ phát triển mạnh của tán lá và cành nhánh, vì cây chưa giao tán với nhau. Giai đoạn 6-12 tuổi, cây đước phát triển mạnh về đường kính và chiều cao, nên xảy ra hiện tượng cạnh tranh về dinh dưỡng và ánh sáng rất mãnh liệt giữa các cá thể trong rừng. Giai đoạn này cây rừng tỉa thưa tự nhiên rất mạnh; số cây chết khoảng 30% tổng số cây ở tuổi 7-8 và khoảng 20-25% số cây ở tuổi 10-11. Giai đoạn cây 13-20 tuổi, cây tiếp tục phát triển nhanh về đường kính và cạnh tranh về dinh dưỡng mạnh, nhưng số cây bị tỉa thưa tự nhiên ít hơn. Số cây chết khoảng 10-15% ở tuổi 15 và khoảng 5% ở tuổi 17-18.
    Nghiên cứu về sinh khối ở 3 loại rừng đước, Nguyễn Hoàng Trí (1986) đã cho thấy:
    Rừng đước đôi trưởng thành có sinh khối: 276.829kg/ha.
    Rừng đước đôi tái sinh tự nhiên, tuổi 7-8, có sinh khối: 14.004kg/ha.
    Rừng đước đôi trồng 6-8 tuổi có sinh khối: 33.846kg/ha.
    Mùa hoa quả: ra hoa vào tháng 4-5 (cũng có khi cây ra hoa gần quanh năm), trụ mầm già tháng 8-10.

    1.1.5Công dụng

     Vỏ cây của các loài đước chứa nhiều tanin, được dùng để nhuộm sợi, lưới trong nghề đánh cá, trong công nghệ thuộc da và in. Theo Crevost và cộng sự (1941), trong vỏ đước đôi chứa: độ ẩm: 13,9%, tổng số chất hòa tan + tanin 16,4%; chất không tanin 11,0%; chất không hòa tan 58,7%.
    Vỏ của đước nhọn - đưng (Rhizophora mucronata) có lượng tanin biến động từ 8-40% trọng lượng vỏ; có thể dùng để nhuộm màu nâu thẫm hay đen.
     Gỗ đước đôi tốt, nặng và bền, dùng làm nhà cửa, ván sàn, đóng bàn ghế, giường tủ, hầm than. Than đước có nhiệt lượng cao (1kg than cho 6.675 Kcal), đây là sản phẩm rất được ưa chuộng, ở trong nước và xuất khẩu (sang Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan).
    Gỗ còn dùng để xẻ ván, làm ván sàn, đóng đồ gia dụng như bàn, ghế, giường, tủ...
    Rừng đước đôi là nơi thu hút nhiều loài động vật như thú, chim, bò sát lưỡng cư… sinh sống. Đây cũng là nơi cư trú của rất nhiều loài động vật thủy sinh và ấu trùng của chúng, nhất là các loài tôm và cua, nên có vai trò rất quan trọng đối với nghề cá của địa phương. Rừng đước cũng mang tính phòng hộ cao, do chống được gió, bão và sóng, bảo vệ bờ biển rất tốt, chống được các hiện tượng sụt lở, xói mòn.

    1.1.6Kỹ thuật nhân giống, gây trồng

    - Chọn cây mẹ: Cây mẹ có tuổi 12-20 năm, sinh trưởng và phát triển tốt, không sâu bệnh, không khuyết tật, phân cành cao, tán cân đối. Tốt nhất là thu hạt ở rừng giống hoặc rừng giống chuyển hóa.
    - Thu hái, bảo quản. Quả đước chín vào tháng 7-11, nhưng thời gian thu quả giống tốt nhất vào tháng 7-9. Điều quan trọng là chọn các trụ mầm già (màu xanh thẫm có vòng nhẫn màu hồng dài 1,2-1,5cm) và không bị sâu đục thân, thể hiện bằng các đốm màu nâu trên thân trụ mầm.Quả giống cần nguyên vẹn, chưa đâm rễ, dài 20-25cm, trọng lượng bình quân 0,25g/quả. Hiện giống quả đước vẫn thu chủ yếu từ các quả rụng, trôi nổi trên kênh rạch; dùng vợt lưới để vớt. Khi thu về phải loại bớt các quả đã bị thối hoặc sâu bệnh, chất lượng kém. Tốt nhất là đem trồng ngay. Nếu chưa trồng được ngay hoặc phải vận chuyển đi nơi khác, cần che nắng và giữ ẩm cho cây. Có thể giữ quả bằng cách để cây mầm trong các kênh rạch, đóng rào xung quanh để chúng được ngâm trong nước triều lên xuống tự nhiên, hoặc có thể dùng lưới vây quanh đám cây mầm thả nổi trên mặt nước. Cũng có thể thu gom về dùng mái che nắng, tưới nước mặn hàng ngày 2-4 lần. Tuy nhiên thời gian bảo quản thường không quá 15 ngày.
    - Kỹ thuật trồng rừng
          + Thời vụ trồng: từ tháng 7-9
          + Mật độ trồng: 10.000cây/ha
          + Kỹ thuật trồng, chăm sóc, khai thác
    Cắm phần đuôi (trụ mầm)của quả đước xuống đất bùn, sâu từ 5-8cm (khoảng 1/3 chiều dài quả)
    Trong năm đầu chăm sóc rừng chủ yếu là điều tiết nước, tra dặm cho đủ mật độ, hạn chế sự phá hoại của ba khía, chù ụ, còng, cáy … cắn, phá cây mầm.
    Khai thác rừng nên thực hiện vào năm thứ 20-22, chủ yếu là chặt trắng, hoặc chặt trắng có chừa cây mẹ làm giống.
    Các dạng lập địa trồng rừng đước đôi chủ yếu
    Điều kiện lập địa Vùng ngập triều thường xuyên Vùng ngập triều thấp Vùng ngập triều trung bình Vùng ngập triều cao Vùng ngập triều bất thường
    Loại đất Ia Ib Ic Id Ie
    Số ngày ngập Hàng ngày 300-340 ngày 100-300 ngày <100 ngày Rất ít
    Tính chất đất Bùn lỏng Bùn Bùn chặt, sét mềm Sét cứng Đất rắn chắc
    Khả năng sinh trưởng của đước Không thích hợp ít thích hợp Thích hợp ít thích hợp Không thích hợp
     Nguồn: Hoàng Văn Thơi, Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam, 2002.         
    Như vậy, các điều kiện dưới đây là thích hợp nhất để trồng đước: Vùng ngập triều trung bình với số ngày ngập 100-300 ngày; đất: bùn chặt, sét mềm.
     Người ta thường trồng đước bằng trụ mầm. Kỹ thuật trồng đước tương đối đơn giản bằng cách cắm trụ mầm xuống bùn tùy theo vị trí, với khoảng cách 1,2x1,2m hay 1x1m (mật độ 7.000-10.000 cây/ha). Nơi đất chặt cần dùng que nhọn chọc 1 lỗ sâu xuống đất, sau đó cắm trụ mầm vào lỗ. Cần chia lô để trồng, khoảng cách giữa các lô là 3-5m để tiện đi lại. Thời gian trồng: tháng 9-10. Điều quan trọng là phải chọn trụ mầm già (có màu xanh thẫm, vòng cổ màu hồng dài 1,5-2cm) và không bị sâu đục thân (trên trụ mầm không có những đốm màu nâu).
    Sau khi trồng khoảng 10 ngày, trụ mầm nẩy lá. Nơi lập địa thích hợp sau 6 tháng cây đã có 4-5 cành nhỏ. Lúc này cần bảo vệ rừng, chú ý sự lưu thông nước trên kênh rạch, cấm đánh bắt thủy sản và thuyền đi lại trong khu vực rừng đước mới trồng.
    Nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á thường bắt đầu gieo trụ mầm đước trong vườn ươm, sau độ 4-8 tháng mới đem trồng ngoài bãi. Đất trồng là nơi có bùn mềm, ngập trièu định kì hàng ngày. Không nên trồng trên các bãi lầy hướng biển vì dễ bị sóng đánh bật đi và bị hà bám. Nên trồng xen với mắm hoặc trồng sau dải rừng tiên phong. Trong 3 năm đầu, chăm sóc rừng trồng chủ yếu đảm bảo điều tiết nước, tra dặm cây cho đủ mật độ. Khi rừng đã khép tán cần tiến hành dọn vệ sinh, tỉa bớt cành nhánh. Thực hiện tỉa thưa 2 lần (lần thứ nhất vào năm rừng được 8-10 tuổi với cường độ 30-50% số cây, và lần thứ hai vào năm 14-16 tuổi với cường độ 20-30% số cây).
    Do rừng đước tái sinh tự nhiên tốt, nên có thể lợi dụng tái sinh tự nhiên để phục hồi rừng. Khi chặt, nếu rừng đước xa kênh rạch cần chừa lại 30-50 cây mẹ/ha để chúng tự gieo giống. Còn nếu rừng gần các kênh rạch có rừng ngập mặn có thể lợi dụng quả đước trôi đến để tái sinh tự nhiên.

    1.1.7Khai thác, chế biến và bảo quản

    Vỏ đước để chế biến tanin thường được bóc bằng rìu hay dao từ cây sống hay cây đã chặt hạ. Phần gỗ còn lại dùng đốt than, xẻ ván hay làm củi. Theo kinh nghiệm của Malaysia thì lượng vỏ của đước đôi dùng để chế biến tanin thường có tỷ lệ cao hơn lượng vỏ của đước nhọn lượng vỏ này chiếm tỉ lệ 23-27% thể tích hay 18-20% trọng lượng của thân.
    Vỏ sau khi tách khỏi thân, không được để khô vì để khô sẽ mất giá trị; nếu vỏ không cần dùng ngay, thường được xếp thành đống nơi râm, mát và giữ ẩm bằng cách thường xuyên tưới nước.

    1.1.8Giá trị kinh tế, khoa học và bảo tồn

    Ở hầu hết các nước nhiệt đới châu Á, đước đôi được trồng cho mục đích kinh doanh gỗ củi, đặc biệt là than và tanin. Ở Malaysia, vỏ đước là nguồn cung cấp tanin quan trọng. Ở Việt Nam, hàng năm sản xuất được chừng 60.000 tấn gỗ đước. Ngoài ra đước còn có vai trò rất quan trọng trong việc trồng và khôi phục rừng ngập mặn ở miền Nam Việt Nam. Nhờ có các cánh rừng ngập mặn này, bờ biển đã chống được gió bão và sụt lở do sóng vỗ mạnh thường xuyên. Sinh cảnh rừng đước cũng rất quan trọng đối với các loài động vật có xương sống (cầy cáo, sóc, khỉ, trăn rắn...) và các loài giáp xác như tôm cua.... Rừng đước cũng tạo cảnh đẹp cho vùng sông nước Tây Nam Bộ và là điểm du lịch rất hấp dẫn cho khách trong và ngoài.ước.
    Cần bảo vệ và phát triển rừng đước vì cả 3 mục tiêu: kinh tế, môi trường và dịch vụ.